Các bữa ăn của Thái thường được dọn theo kiểu gia đình, nghĩa là những người dự bữa ăn tự lấy các món được đặt ở giữa bàn. Theo truyền thống, người ăn tiệc gọi từng món ăn có thể là món cà ri, món rau và canh. Mỗi món thường đủ cho hai người ăn. Thêm một hoặc hai người, có thể gọi món ăn nhiều hơn, Các món ăn không được phục vụ lần lượt, cả bữa ăn phục vụ gần như cùng một lúc (hoặc món thịt gà có thể chế biến nhanh cho họ, nếu chỉ có một cái chảo lớn thì các món có thể đem lần lượt). Canh thường không được múc sẵn vào chén. Bạn phải tự múc ra từ cái tô chung, dùng muỗng chan nước canh vào chén cơm của mình hoặc múc vào một chén riêng.
Phần lớn các món ăn Thái đều được ăn bằng nĩa và muỗng. Nĩa (ส้อม) được để ở bên tay trái và được dùng để đưa thức ăn vào muỗng (ช้อน) bạn dùng để ăn. Đối với người Thái, dùng nĩa đưa đồ ăn vào miệng là bất lịch sự, cũng giống như dùng dao (มีด) để đưa đồ ăn vào miệng ở các nước phương Tây. Ngoại trừ thói quen dùng nĩa - muỗng khi ăn xúp mì, ăn bằng muỗng - đũa (ตะเกียบ) và ăn cơm nếp (thường ở Bắc và Đông Bắc Thái) được xắn thành miếng và ăn bằng tay phải cùng với thực phẩm khác.
Thông thường khi ăn dùng đĩa bằng, mỗi lần không múc hơn một hoặc hai muỗng đầy vào đĩa của bạn. Thường bắt đầu bữa ăn chung bằng một muỗng đầy cơm tẻ trước - cử chỉ tỏ ra cơm là một thành phần quan trọng nhất của bữa ăn. Nếu bạn được người Thái mời cơm, họ sẽ mời bạn ăn ít cơm và nhiều món cà ri, hải sản,... là một cử chỉ tỏ ra hào phóng (vì giá gạo tương đối rẻ). Tuy nhiên, khách mời khiêm tốn thường ăn nhiều cơm hơn.
Luôn luôn chừa lại phần thức ăn trên đĩa đựng món ăn và đĩa của bạn. Vét sạch đĩa của bạn và không chừa lại chút thức ăn nào trên đĩa đựng thức ăn, hành động này sẽ được coi như là sự lăng mạ nặng chủ mời của bạn. Đó chính là lý do tại sao người Thái thường đặt nhiều món ăn vào các dịp tổ chức ăn tập thể - thực phẩm còn lại trên bàn càng nhiều, thì chủ mời càng tỏ ra hào phóng.
Một số người ưa thích món ăn ở Thái, trong khi những người khác lại không như vậy. Các món ăn của Thái có thể cay và có nêm gia vị. Dùng nhiều tỏi (กระเทียม) và ớt (พริก), nhất là loại thịt nước tẩm nhiều ớt có hình dáng như cá đuối người ta có thể không dám ăn vì sợ cay nồng của cà ri.
Cách tốt nhất để tránh bị vị cay nồng của ớt hoặc cà ri là ăn với nhiều cơm tẻ (khi vừa đủ nguội). Nước và bia sẽ làm tan bớt vị cay nồng ở miệng, cơm sẽ thấm các chất báo. Sau một lúc bị nóng rát, trà đậm có thể giúp ít cho việc súc miệng khỏi các chất dầu còn lại và tiêu hóa chúng.
Làm ơn - ขอ (khỏ)
Hóa đơn - บิล (bil)
Hóa đơn - บิล (bil)
Ly - แก้ว (keo)
Thực đơn - เมนู/รายการอาหาร (menu/rai kan a-hãn)
Tôi có thể ăn đồ ăn Thái - ฉันทานอาหารไทยเป็น (chẵn than a-hãn Thay pên)
Tôi thích ăn cay - ฉันชอบเผ็ด (chẵn chóp p(h)ệt)
Tôi không thích ăn cay - ฉันไม่ชอบเผ็ด (chẵn may chóp p(h)ệt)
Anh có... không? - คุณมี... ไหม (khun mii... mảy)
Tôi muốn - ฉันอยากได้ (chẵn dạc đai)
Ngon - อร่อย (ạ-ròi)
Anh có món gì đặc biệt? - มีอะไรพิเศษ (mii ạ-rài p(h)í xệt)
Tôi không gọi món này - ฉันไม่ได้สั่ง (chẵn may đai xằng)
0 comments:
Post a Comment